Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

PHÁP MỞ RỘNG PHẠM VI CHIẾM ĐÓNG VÀ HIỆP ƯỚC GIÁP TUẤT | KHÁT VỌNG NON SÔNG | NGƯỢC DÒNG LỊCH SỬ
PHÁP MỞ RỘNG PHẠM VI CHIẾM ĐÓNG VÀ HIỆP ƯỚC GIÁP TUẤT | KHÁT VỌNG NON SÔNG | NGƯỢC DÒNG LỊCH SỬ

05/06/2013 11:02 8705

Điểm: 4.33/5 (3 đánh giá)

Đó cũng là hòa ước cuối cùng của triều Nguyễn ký với thực dân Pháp, mở đầu thời kỳ Việt Nam mất độc lập, tự do và trở thành quốc gia lệ thuộc vào nước Pháp.

Từ đầu năm 1884 chiến sự trên chiến trường Bắc Kỳ diễn ra ngày thêm một ác liệt. Chính phủ Pháp và triều đình Bắc Kinh chủ trương nối lại các cuộc thương thuyết về vấn đề Việt Nam. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn đã ký Hòa ước Harmand (1883), công nhận quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam, nhưng Pháp muốn tránh cuộc xung đột với quân Thanh trên chiến trường Bắc Kỳ, triều đình Thanh cũng muốn vớt vát chút ít quyền lợi ở Việt Nam nhưng cũng không dám có hành động quyết liệt. Cuộc thảo luận giữa Pháp – Thanh đã dẫn tới việc ký kết tại Thiên Tân bản Quy ước ngày 11 tháng 5 năm 1884 đặt cơ sở hòa ước lâu dài về sau. Theo quy ước quân Thanh sẽ rút hết khỏi Bắc Kỳ (quy ước này đã giúp quân Pháp loại nhà Thanh ra khỏi vấn đề Việt Nam). Trên đà thắng đó, ngày 6 tháng 6 năm 1984, chính phủ Pháp lại cử sứ thần là Patenotre (Pa-tơ-nốt) cùng triều đình Huế ký hòa ước mới, Hòa ước Giáp Thân( Hòa ước Pa-tơ-nốt). Đại diện phía triều đình nhà Nguyễn có: Phạm Thận Duật (Toàn quyền đại thần); Tôn Thất Phan (Phó toàn quyền đại thần); Nguyễn Văn Tường (Phụ chính đại thần). Đại diện phía Pháp là: Jules Patenotre (sứ thần Cộng hòa Pháp).

Toàn quyền đại thần Phạm Thận Duật (1825-1885), người thay mặt triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Giáp Thân 1884.

Nội dung Hòa ước gồm 19 khoản căn bản dựa trên Hòa ước Quí Mùi (năm 1883) nhưng được sửa lại một số điều như:

Khoản 1: Nước Việt Nam thừa nhận sự bảo hộ của Pháp là nước sẽ thay mặt Việt Nam trong mọi giao tiếp với ngoại quốc và bảo hộ người Việt Nam ở nước ngoài.

Khoản 3: Tại các tỉnh nằm trong giới hạn từ giáp Nam Kỳ đến giáp Ninh Bình, các quan lại triều đình sẽ tiếp tục cai trị nhân dân như cũ, trừ các việc thương chính, công chính cùng các việc cần có chủ trương nhất trí, cần có kỹ sư Pháp hay người châu Âu giúp.

Về hình thức của điều ước này, tuy thực Pháp có trả lại cho triều Nguyễn ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía bắc; tỉnh Bình Thuận ở phía nam và triều Nguyễn quyền có đội quân riêng. Mục đích nhằm xoa dịu phản ứng có thể có của triều đình nhà Thanh và tranh thủ mua chuộc, lung lạc thêm một bước nữa để giai cấp phong kiến Việt Nam đầu hàng.

Hòa ước Pa-tơ-nốt đã cắt Việt Nam chia ra làm ba xứ: Bắc Kỳ (Tonkin); Trung Kỳ (Annam); Nam Kỳ (Cochinchine) với ba chế độ khác nhau, mỗi kỳ có một chế độ cai trị riêng. Nam Kỳ là xứ thuộc địa Pháp; Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ Pháp bảo hộ nhưng trên danh nghĩa triều đình nhà Nguyễn vẫn được quyền kiểm soát. Đó là điểm chính trong toàn bộ chính sách chia để trị của chủ nghĩa thực dân.

Một trang trong Hòa ước Giáp Thân 1884.

Hòa ước này hoàn toàn xóa những biểu hiện quyền lực còn lại của chế độ phong kiến Việt Nam độc lập, kể cả ấn vàng nặng 5,9kg của vua Gia Long đúc từ khi khai lập nhà Nguyễn năm 1802 cũng bị nấu chảy ra trước sự chứng kiến của các quan chức cao cấp thực dân.

Đến đây, chế độ phong kiến Việt Nam với ý nghĩa là một vương triều độc lập đã sụp đổ. Việt Nam đã trở thành thuộc địa của tư bản Pháp, các triều vua Nguyễn tồn tại sau đó chủ yếu do thức dân Pháp lập nên như một con bài cần thiết cho sự vận hành guồng máy thống trị của chủ nghĩa thực dân mà thôi.

Huệ- Chính (tổng hợp)

TLTK: Đại cương lịch sử, tập 2 (1858-1945). NXB Giáo dục 2007.

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Bạn đang xem bài viết: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Thông tin do viendaotaongonngu.edu.vn chọn lọc và tổng hợp cùng với các chủ đề liên quan khác.

Similar Posts

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *